Bột Magie được ứng dụng rộng rãi trong hỏa thuật với vai trò là chất cháy kim loại. Nhiệt độ nóng chảy 649 °С. Nhiệt độ sôi tương đối thấp
1107°С và cho phép nó
(với lượng dư trong hỗn hợp thuốc) bay hơi và cháy trong oxy không khí.
Tỷ trọng
1.74g/cm3. Nhiệt cháy 6000kcal/kg.
Trong không khí tương đối bền vững, mặc dù theo thời gian thì mất đi độ sáng bóng do tạo thành lớp màng oxit mỏng. Ở nhiệt độ phòng nó không tác dụng với nước, nhưng sẽ phản ứng mạnh đẩy hidro ra khỏi nước sôi. Khi xuất hiện hơi ẩm thì phản ứng chậm với lưu huỳnh, xôđa các muối oxalat. Không hợp với các chất có tính axit, ngay cả các muối amoni đều phản ứng với nó (khi có hơi ẩm). Ngược lại, nó hầu như không phản ứng với các chất có tính kiềm. Khi trộn cùng các muối nitrat thì nó tương đối ổn định (trừ amoni nitrat). Các muối clorat và peclorat khi có hơi ẩm thì có khả năng oxy hóa từ từ Mg, muối Amoni peclorat phản ứng tương đối mãnh liệt. Vì thế Mg khi được sử dụng trong hỏa thuật thường được bao phủ bởi 1 lớp parafin hoặc là xử lý qua dung dịch Kali dicromat (thụ động hóa).
Lớp màng phủ bảo vệ tốt nhất là dầu lanh, tuy nhiên nó không thể bảo vệ Mg khỏi muối amoni, để làm được điều này cần thụ động hóa. Khi tiếp tục bảo quản thì phải sấy khô cẩn thận. Nó được sử dụng chủ yếu trong các thuốc tín hiệu và thuốc phát sáng cho ra ánh sáng chói, đồng thời trong các thành phần thuốc khác đóng vai trò là chất cháy dễ phát hỏa cho nhiều nhiệt khi cháy. Trong công nghiệp sản xuất Magie dạng bột khi phay МПФ-1 – МПФ-4 trong đó số tăng lên thì cỡ hạt giảm đi từ 311 đến 56μm. Hàm lượng Mg trong bột 98-94%. Trong các loại thuốc hỏa thuật tín hiệu quân dụng thì nó được sử dụng chủ yếu trong МПФ-2 và đôi khi trong МПФ-3.
Thụ động hóa Mg như sau: 50 g Kali bicromat hòa tan vào 300 ml nước nóng. Đầu tiên bột Mg được nung nóng trong không khí ở 100 °С trong 1
giờ. Sau
đó Mg
được trộn với dung dịch Kali bicromat nóng và khuấy đều đến khi dung dịch hết màu nâu gụ. Sản phẩm
được vắt kiệt và sấy khô.
No comments:
Post a Comment