Trong thời gian
chiến tranh thế giới lần thứ 2, người Đức đã phát minh ra các thuốc phát sáng
trong đó đóng vai trò làm chất oxy hóa là các muối sunfat. Có thể thấy
điều này do quá khan hiếm nitrat trong thời kỳ chiến tranh:
1) hợp kim Mg-Al – 41%, NaNO3 -11%, CaSO4 -32%, H2O
– 1%, CaCO3 -15%.
2) Mg – 40%, NaNO3
– 13%, CaSO4 -40%, H2O – 7%. H2O được cho thêm vào hỗn hợp để tạo ra thạch cao trong
đó. Đây là thành phần thuốc phát sáng trong thời kỳ chiến tranh thế giới
lần thứ 2, có thể cháy dưới nước.
3) Mg – 16%, Al
– 12%, Ba(NO3)2 – 32%,
BaSO4 -40%. Người ta sử
dụng chất kết dính là 8 phần dầu lanh và 1 phần mangan oxit trên 100 phần hỗn
hợp. Để tăng tính công nghệ người ta có thể sử dụng hỗn hợp phát sáng tự
đóng rắn, liều các thuốc này có thể được làm bằng cách đúc rót vào một khuôn có
sẵn và đóng rắn chất kết dính polymer ở nhiệt độ thường hoặc nhiệt độ cao. Điều này cũng đảm bảo tính dẻo của liều phóng và độ
bền của nó trước các dạng phá hoại khác nhau. Ví dụ như:
1) NaNO3 – 28-38%, Mg –54-62%, chất kết dính (polysilocsan) – 3-15%, chất đóng rắn- 0.3-1.5%.
2) NaClO4 –40-44%, Mg – 40-48%, chất kết dính (nhựa polyester + glyxidil metacrylat + etylendimetylacrylat) 12-17%.
3) NaClO4 – 42%, Mg – 42%, nhựa polyester - 7.75%, glyxidilmetacrylat - 7.75% + etylendimetylacrylat - 0.5%. Tổng cường
độ sáng riêng 50500 Cd.s/g.
4) NaClO4 –33%, Mg – 17%, chất kết dính (sopolymer sterol và sản phẩm trùng ngưng của propilenglycol,
andehit maleic và ftaleic –
laminac) – 28%, nhựa polyester (sản
phẩm trùng ngưng của dietylenglycol và axit adipinic) – 17%, chất đóng rắn -
1%, chất hóa dẻo và chất an định 4%.
No comments:
Post a Comment