Muối này được tổng hợp bởi
Bertolle vào năm 1786. Khối lượng mol 122,55. Là chất kết tinh không màu, không
hút ẩm.
Ở trong nước tan 3.3g, 7.3g, 37.6g, 56.3g/100g nước ở các nhiệt độ
tương ứng là 0°С, 20°С, 80°С, 100°С. Nhiệt độ nóng chảy 356°С, theo số liệu
khác là 368°С. Bắt đầu phân hủy ở 400°С kèm theo oxy tỏa ra. Phân hủy chậm dưới
tác động của tia cực tím. Nhiệt tạo thành -95.1 kcal/mol. Tỷ trọng 2.33g/cm3.
Dưới tác động của axit có thể tách ra chất có nguy cơ cháy nổ là dioxit clo ClO2, khi có mặt nó nhiều vật liệu hữu cơ có thể tự bốc cháy. Đây là một trong những chất oxy hóa tốt nhất có nhiệt độ phân hủy thấp. Khi đun nóng có thể nổ do va đập mạnh, nhưng không nhạy nổ với kips nổ số 6. Hỗn hợp thuốc trên nền của nó rất dễ phát hỏa. Từ nửa thế kỷ 19 nó đã được sử dụng làm chất oxy hóa trong các thuốc tín hiệu và trong thuốc va đập trong nước Nga. Tuy nhiên có rất nhiều thuốc trên nền của nó nhạy nổ với ma sát và va đập. Vì thế ngày nay nó rất ít được ứng dụng trong các thuốc tạo khói màu, diêm và các thuốc cọ xát. Một số thuốc trên nền Kali clorat, ví dụ như nó có chứa Lưu huỳnh chưa làm sạch hoặc là tạp chất axit thì sẽ có khả năng tự phát hỏa, vì thế các thuốc này thường chứa chất để trung hòa tính axit, ví dụ như đá vôi. Chất xúc tác phân huỷ là
dioxit mangan, bicromat kali, đồng oxit. Nó không hợp với muối amoni, tại vì
khi có hơi ẩm nó sẽ tạo thành hợp chất amoni clorat không bền, tuy nhiên khi chứa
lượng lớn chất trơ (ví dụ antraxen) thì hỗn hợp này tồn tại được. Khi kết hopự
với phốt pho thì sẽ nổ ngay cả khi bị nén nhẹ nhất.
Các điều chế:
1. Điện phân dung dịch kali
clorit trên điện cực bằng than chì khi làm lạnh và khi có mặt muối kali
bicromat thì hiệu suất phản ứng tăng lên.
2. Clo hóa dung dịch Ca(OH)2 trong nước. Canxi clorat thu được
rót vào dung dịch Kali clorit, sau đó cho kết tinh lại muối kali clorat.
No comments:
Post a Comment